Tái cơ cấu doanh nghiêp nhà nước: nhìn lại 6 năm (2011-2016) và những hướng đi tiếp theo

25/04/2017 12:00 AM


Tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hoá DNNN là một trong nội dung trọng tâm của tái cơ cấu nến kinh tế Việt Nam được khởi xướng bằng Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ IV (khoá 11) năm 2011 và Đề án 929 của Chính phủ năm 2012. Nhìn lại sau 6 năm thực hiện, tuy khối lượng công việc tiếp tục phải làm đến năm 2020 còn nhiều, song quá trình tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hoá DNNN đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận và cũng cho thấy rõ nhiều hạn chế, bất cập và khuyết điểm. Phát huy kết quả đạt được, khắc phục hạn chế, khó khăn bằng các giải pháp cụ thể, quyết liệt; quá trình thực hiện công khai, minh bạch sẽ thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hoá DNNN tranh thủ sự đồng thuận xã hội, sự đồng lòng trong từng cơ quan, doanh nghiệp, sự quyết tâm của cán bộ, người lao động sẽ đẩy nhanh tiến độ, kết quả thực hiện đến sát hơn mục tiêu của tái cơ cấu DNNN là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn nhà nước; thu gọn sự tham gia của DNNN, tạo đà cho khu vực dân doanh phát triển nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững.

images1147199tcc_RMDC.jpg

 

Nhìn lại chặng đường tái cơ cấu DNNN trong 6 năm qua

Những con số biết nói...

Giai đoạn 2011 – 2015, cả nước đã sắp xếp được 588 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 508 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác 80 doanh nghiệp. Tổng giá trị thực tế doanh nghiệp của 508 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa là 760.774 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 188.274 tỷ đồng; Tổng vốn điều lệ theo phương án được phê duyệt là 197.217 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 128.031 tỷ đồng (bằng 65% vốn điều lệ); Nhà đầu tư chiến lược nắm giữ 31.065 tỷ đồng (bằng 15,8% vốn điều lệ); Người lao động nắm giữ 4.042 tỷ đồng (bằng 2% vốn điều lệ); Tổ chức công đoàn nắm giữ 1.124 tỷ đồng (bằng 0,5% vốn điều lệ); bán công khai 32.931 tỷ đồng (bằng 16,7% vốn điều lệ).

Trong năm 2016 (tính đến ngày 20/12/2016) đã có 56 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị thực tế là 34.017 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 24.390 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ theo phương án được phê duyệt là 24.379 tỷ đồng, trong đó nhà nước nắm giữ 11.937 tỷ đồng (bằng 48,97% vốn điều lệ), bán cho nhà đầu tư chiến lược 7.670 tỷ đồng (bằng 31,46% vốn điều lệ), bán cho người lao động 388 tỷ đồng (bằng 1,59% vốn điều lệ), tổ chức công đoàn 8 tỷ đồng (bằng 0,03% vốn điều lệ), số lượng cổ phần bán đấu giá công khai là 4.374 tỷ đồng (bằng 17,94% vốn điều lệ).

Giai đoạn 2011 - 2015, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã thực hiện thoái vốn đầu tư vào 05 lĩnh vực nhạy cảm (lĩnh vực Bất động sản, Chứng khoán, Tài chính-Ngân hàng, Bảo hiểm và Quỹ đầu tư) được 11.036 tỷ đồng, thu về 10.742 tỷ đồng (số thu về giảm so với sổ sách do Tập đoàn Dầu khí thoái 800 tỷ đồng và Tổng công ty Lương thực miền Nam thoái 1,3 tỷ đồng với giá 0 đồng theo chỉ đạo của NHNN).

Cũng giai đoạn này, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đã tiếp nhận 67 doanh nghiệp, với giá trị sổ sách kế toán là 1.666 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp SCIC tiếp nhận từ khi thành lập đến nay lên gần 1000 doanh nghiệp với tổng giá trị vốn nhà nước hơn 8.722 tỷ đồng. SCIC đã bán vốn tại 411 DN, với doanh thu bán vốn đạt 8.726 tỷ đồng, giá vốn 3.595 tỷ đồng, thặng dư bán vốn hơn 5.130 tỷ đồng, gấp 2,4 lần giá trị sổ sách.

Trong năm 2016, các đơn vị đã thoái được 3.646 tỷ đồng, thu về 6.840 tỷ đồng, bao gồm: Thoái vốn tại 05 lĩnh vực nhạy cảm được 490 tỷ đồng, thu về 450 tỷ đồng (giá trị thu về thấp hơn giá trị đã đầu tư do Tổng công ty Thanh Lễ thoái 100,6 tỷ đồng tại Khu biệt thự vườn Chánh Mỹ, thu về theo tiến độ đạt 18,3 tỷ đồng); Thoái vốn đầu tư ở doanh nghiệp khác (ngoài 05 lĩnh vực nhạy cảm) được 1.578 tỷ đồng, thu về 2.273 tỷ đồng. SCIC đã bán vốn tại 67 doanh nghiệp với giá trị là 1.577 tỷ đồng, thu về 4.116 tỷ đồng (chưa tính khoản bán đấu giá cổ phần của Vinamilk ngày 12/12/2016).

Đánh giá các mặt đã làm được

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong giai đoạn 2011 – 2015 và năm 2016, các đơn vị đã tổ chức triển khai đề án tái cơ cấu DNNN và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận:

Thứ nhất, cùng với việc tập trung hoàn thiện các cơ chế, chính sách đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp,cơ chế, chính sách liên quan đến tái cơ cấu DNNN đã được ban hành, tạo khung pháp lý khá đầy đủ, đồng bộ, từng bước đổi mới cơ chế quản lý DNNN, xoá bỏ can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thường xuyên được rà soát, điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và tình hình thị trường, giúp các DNNN thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, số lượng DNNN đã giảm mạnh, tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cơ bản thực hiện được vai trò, nhiệm vụ được giao.

Các DNNN vẫn có vai trò chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và đã tập trung hơn vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu, địa bàn quan trọng. Hệ thống DNNN đã và đang được đổi mới, sắp xếp lại, góp phần phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Từ chỗ năm 2010 còn gần 1.500 DNNN đầu tư dàn trải ở nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, sau khi tích cực thực hiện tái cơ cấu các DNNN với một trong những biện pháp trọng tâm là cổ phần hóa, số DNNN tính đến năm 2016 còn 652 doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, đảm bảo cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh, quốc phòng.

Các DNNN đã cơ bản thực hiện được vai trò, nhiệm vụ chủ sở hữu giao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế. Trong giai đoạn này, các DNNN đã đóng góp lớn trong việc xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được do đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, không có khả năng sinh lời trong ngắn hạn như hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin liên lạc, nông nghiệp và nông thôn, hạ tầng phục vụ cho quốc phòng, an ninh... Nhiều DNNN đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào phát triển sản xuất kinh doanh; đặc biệt trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, giao thông, xây dựng, hóa chất, cao su, nâng cao năng suất cây trồng.

Thứ ba, hiệu quả hoạt động của DNNN và doanh nghiệp sau cổ phần hóa được nâng lên

- Trong giai đoạn 2011 - 2015, hàng năm Chính phủ đều đã có báo cáo Quốc hội về thực trạng tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các TĐ, TCT nhà nước nói riêng và các DNNN trong toàn quốc nói chung; các báo cáo đều được Bộ Tài chính thực hiện đăng tải công khai trên Trang thông tin điện tử (website) chính thức của Bộ Tài chính, bao gồm Báo cáo số 336/BC-CP ngày 16/11/2012;- Báo cáo số 490/BC-CP ngày 25/11/2013; Báo cáo số 512/BC-CP ngày 25/11/2014; Báo cáo số 620/BC-CP ngày 11/11/2015; Báo cáo số 428/BC-CP ngày 17/10/2016 của Chính phủ.

Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, các DNNN đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao; hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn duy trì, ổn định, vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển, đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Đến cuối năm 2015, theo báo cáo hợp nhất của 652 DNNN thì Tổng tài sản là 3.043.687 tỷ đồng, Vốn chủ sở hữu là 1.376.236 tỷ đồng, Tổng doanh thu là 1.588.326 tỷ đồng, Lợi nhuận trước thuế là 161.431 tỷ đồng, Nộp NSNN là 246.038 tỷ đồng.

Theo số liệu báo cáo của các DNNN đã cổ phần hóa giai đoạn 2011-2015 gửi về Bộ Tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2015 đều tăng hơn so với năm trước khi cổ phần hóa. Cụ thể: vốn điều lệ tăng 72%; tổng tài sản tăng 39%; vốn chủ sở hữu tăng 60%; doanh thu tăng 29%; lợi nhuận trước thuế tăng 49%; nộp ngân sách tăng 27%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%.

Bốn là, quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN tiếp tục được hoàn thiện

Trong giai đoạn 2011 – 2015, việc thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp được thực hiện theo Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ. Trong hơn 3 năm thực hiện Nghị định số 99/2012/NĐ-CP đã đạt được những kết quả nhất định như: đã phân định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước và nội dung quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; cơ chế phân công, phân cấp tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước dần được hoàn thiện, xác định rõ và phù hợp hơn quyền và trách nhiệm của từng chủ thể quản lý DNNN, chức năng kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN được chú trọng hơn, tạo chuyển biến nhất định về nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước trong quản lý, bước đầu khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý, giám sát đối với DNNN. Chính phủ ban hành cơ chế và các quy định về hoạt động của DNNN trong phạm vi quyền chủ sở hữu nhà nước. Thủ tướng Chính phủ quyết định các vấn đề lớn, quan trọng và mang tính chiến lược đối với tập đoàn kinh tế nhà nước như quyết định thành lập, vốn điều lệ, phê duyệt chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm.

Năm là, công tác sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu DNNN có nhiều kết quả

- Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hóa theo hướng công khai, minh bạch, kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN, kết quả là giai đoạn 2011 – 2016 cả nước đã thực hiện cổ phần hóa 564 doanh nghiệp với tổng giá trị thực tế gần 800 nghìn tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là trên 213 nghìn tỷ đồng, qua đó về cơ bản hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa DNNN theo đề án tái cơ cấu DNNN đề ra.

- Để đẩy mạnh việc tái cơ cấu DNNN, trong đó có tái cơ cấu lĩnh vực tài chính, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách có tính đột phá trong việc thoái vốn nhà nước nhằm hạn chế tối đa thất thoát, đảm bảo lợi ích cho nhà nước như thoái vốn dưới mệnh giá, dưới giá trị sổ sách kế toán, chuyển nhượng vốn theo hình thức thỏa thuận thoái vốn theo lô...

- Công tác sắp xếp, cổ phần hoá đã góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, tái cơ cấu nguồn nhân lực cho doanh nghiệp và xã hội. Hiện nay, tổng số các doanh nghiệp đã cổ phần hóa đã niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán là gần 450 doanh nghiệp trên tổng số gần 700 công ty niêm yết. Về cơ bản, đây là các doanh nghiệp lớn dẫn đầu thị trường về mức vốn hóa cũng như về tính minh bạch và quản trị công ty. Theo báo cáo của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, quy mô của khối doanh nghiệp này liên tục tăng qua từng năm. Trong đó, tổng tài sản tăng bình quân 14%/năm, tổng vốn chủ sở hữu tăng bình quân 16%/năm, tổng vốn đầu tư chủ sở hữu tăng khoảng 12%/năm.

Các doanh nghiệp đã tự cơ cấu lại toàn bộ nguồn nhân lực của mình thông qua phương án sắp xếp lao động khi cổ phần hóa, người lao động nào chưa đủ năng lực sẽ được cử đi đào tạo lại, nâng cao thêm chuyên môn và tay nghề. Lao động dôi dư ở các đơn vị sắp xếp, cổ phần hóa tiếp tục được hưởng chính sách trợ cấp; được hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nghề. Có thể nói, với quá trình cổ phần hóa, nguồn nhân lực của xã hội đã được cơ cấu lại để sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả hơn, đồng thời vẫn duy trì và đảm bảo ổn định an sinh xã hội.

- Quản trị doanh nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực. Hầu hết các DNNN sau khi cổ phần đã tuân thủ quy định về quản trị công ty theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán như các công ty đại chúng khác. Cụ thể: Các doanh nghiệp đều xây dựng điều lệ theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong đó 79% doanh nghiệp sử dụng điều lệ mẫu (Điều lệ mẫu tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC không mang tính chất bắt buộc) và xây dựng quy chế nội bộ về quản trị công ty. Về Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát: 97%-99% các doanh nghiệp có số lượng thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát theo đúng quy định.

Những đổi mới mạnh mẽ về chủ trương chính sách và hệ thống pháp luật kinh doanh đã tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động đồng thời với việc tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cổ phần hóa đã góp phần quan trọng trong việc đổi mới sắp xếp doanh nghiệp, hình thành các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, từ đó góp phần thay đổi phương thức quản trị, tạo ra động lực để phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp. Cổ phần hóa đã làm thay đổi cách thức quản trị công ty, việc kiểm tra, giám sát của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp đã có ý nghĩa thiết thực trong việc đổi mới phương thức quản lý, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp.

Việc hình thành SCIC để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá theo đúng định hướng chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Mô hình hoạt động của SCIC đã bước đầu thể hiện những thế mạnh so với cơ chế chủ quản hành chính trước đây; thực hiện phương thức đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, đồng thời hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa DNNN; công tác quản lý, quản trị doanh nghiệp và tái cơ cấu được SCIC thực hiện thông qua hệ thống người đại diện kết hợp với trực tiếp quản trị danh mục, tình hình doanh nghiệp, đặc biệt là tình hình tài chính, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp được SCIC giám sát chặt chẽ. Việc thực hiện nhiệm vụ thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp trong danh mục Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, đạt hiệu quả cao. Bước đầu đã triển khai có hiệu qủa mô hình vừa đại diện chủ sở hữu, vừa thực hiện đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, gắn với thị trường. SCIC đã và đang trở thành đầu mối tích tụ vốn, từ đó giúp cho Chính phủ thực hiện các khoản đầu tư chỉ định.

- Trong thời gian qua, Công ty TNHH Mua bán nợ (DATC) đã khẳng định được vai trò là công cụ của Chính phủ để hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa DNNN thông qua 03 hoạt động chủ yếu là: xử lý nợ gắn với tái cơ cấu DNNN; tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản loại trừ tại các DNNN thực hiện sắp xếp, chuyển đổi; xử lý nợ theo quyết định của cấp có thẩm quyền thông qua phát hành các công cụ nợ có bảo lãnh của Chính phủ. Hoạt động mua bán, xử lý nợ gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; tạo thu nhập và việc làm ổn định cho hàng vạn lao động tại các doanh nghiệp; tăng nguồn thu cho ngân sách và ổn định tình hình kinh tế - an sinh xã hội tại các địa phương,... Thông qua xử lý nợ, tái cơ cấu doanh nghiệp, DATC đã góp phần đẩy nhanh công tác sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN. Hiệu quả hoạt động kinh doanh, quy mô vốn chủ sở hữu của DATC có xu hướng gia tăng qua các năm mặc dù hoạt động mua, bán nợ là hoạt động đặc thù, có tính rủi ro cao. Công ty đã bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao.

Ghi nhận, chỉ rõ những bất cập, hạn chế, khuyết điểm

- Một số cơ chế chính sách liên quan đến sắp xếp, tái cơ cấu DNNN ban hành chưa kịp thời; một số Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp chưa tích cực, chủ động chỉ đạo triển khai thực hiện tái cơ cấu DNNN. Tiến độ sắp xếp, cổ phần hoá đã được các Bộ, địa phương đẩy mạnh nhưng vẫn còn một số Bộ, địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu và kế hoạch đề ra. Tỷ lệ vốn Nhà nước ở các công ty cổ phần còn cao do lượng cổ phần chào bán ra công chúng đạt thấp so với phương án cổ phần hóa doanh nghiệp. Mặt khác, số lượng doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối khi cổ phần hóa còn lớn nên làm giảm mức độ hấp dẫn tham gia của nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp và là rào cản của quá trình thay đổi nền tảng quản trị.

- Hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, chưa phát huy trên thực tế vai trò nòng cốt của DNNN trong khu vực kinh tế Nhà nước, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp; một số DNNN, tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động yếu kém, làm ăn thua lỗ, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát lớn tài sản nhà nước, gây bức xúc cho xã hội, giảm sút lòng tin của người dân và điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ như Vinashin, Giấy Phương Nam, Xơ sợ Đình Vũ, các dự án nhiên liệu sinh học...; cơ chế quản trị chưa đáp ứng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN còn hạn chế, bất cập.

Việc bàn giao các doanh nghiệp đã cổ phần hóa về SCIC còn chậm, việc thoái vốn, giảm tỷ lệ vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp theo tiêu chí phân loại DNNN chậm được triển khai. Việc thoái vốn khỏi ngành nghề kinh doanh chính và bán hết vốn trong những ngành và lĩnh vực nhà nước không cần nắm giữ chưa đạt kết quả như kỳ vọng. Việc đăng ký giao dịch và niêm yết trên thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa chưa được triển khai nghiêm túc, còn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đăng ký giao dịch và niêm yết theo quy định.

- Nhiều doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại, cổ phần hóa, chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên chưa có sự đổi mới thực chất về quản trị kinh doanh.

- Còn lúng túng trong xây dựng thể chế và mô hình đại diện chủ sở hữu của DNNN; chưa tách bạch được rõ chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương với nhiệm vụ thực hiện quyền chủ sở hữu đối với các DNNN, quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp chưa được thực hiện tập trung và thống nhất, bị chia cắt, chưa chuyên trách vừa làm giảm hiệu lực quản lý, vừa không rõ trách nhiệm giải trình gây khó khăn đổi mới quản trị DNNN.

Xác định nguyên nhân của những bất cập, hạn chế

Nguyên nhân khách quan:

- Quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước giai đoạn 2011 – 2015 và năm 2016 chịu tác động từ những diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là giai đoạn 2011-2013 là giai đoạn Việt Nam chịu tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới dẫn tới sự suy giảm của thị trường tài chính, chứng khoán, do đó cũng tác động tiêu cực giảm sức hút thị trường làm chậm tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn.

- Đối tượng sắp xếp, cổ phần hóa trong giai đoạn này hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn bị, xử lý. Mặt khác, việc thực hiện cổ phần hóa, tái cơ cấu và thoái vốn Nhà nước đối với các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt nên cần nhiều thời gian để chuẩn bị.

Nguyên nhân chủ quan:

- Thời điểm phê duyệt Đề án tái cơ cấu của một số Bộ, địa phương tại một số đơn vị còn chậm so với yêu cầu. Một số Bộ, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai phương án sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn.

- Nhiều DNNN cổ phần hóa thuộc đối tượng tham gia thị trường chứng khoán sau IPO đến nay chưa lên sàn tập trung. Điều này có ảnh hưởng không tốt đến niềm tin của nhà đầu tư khi đưa ra quyết định đầu tư cổ phiếu qua đấu giá do e ngại cổ phiếu sau đấu giá khó giao dịch.

- Nhận thức của một bộ phận cán bộ ở các cấp, các ngành và các doanh nghiệp về chủ trương tái cơ cấu doanh nghiệp tuy đã có chuyển biến nhưng chưa hiểu đúng ý nghĩa quan trọng của việc tái cơ cấu doanh nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội; còn tư tưởng e ngại, lo lắng về vị trí và vai trò lãnh đạo sau cổ phần hóa, vì vậy ảnh hưởng đến tiến độ của quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu.

- Chưa có sự đổi mới căn bản về tổ chức hoạt động và cơ chế quản lý đối với DNNN. Năng lực quản lý, điều hành của một số cán bộ quản lý DNNN chưa theo kịp yêu cầu quản trị hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Một số chưa đảm bảo về phẩm chất trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản của nhà nước.

- Mô hình, tổ chức và cơ chế thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước còn phân tán, thiếu chuyên nghiệp, phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn nhiều vướng mắc, lúng túng làm giảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý, gây khó khăn cho tổ chức, hoạt động và đổi mới quản trị DNNN.

Chặng đường tái cơ cấu DNNN từ năm 2017

Mục tiêu rõ ràng

- Doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.

- Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.

- Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý và năng lực quản trị theo chuẩn mực quốc tế; hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải được quản lý, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch, bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Hoàn thiện mô hình quản lý giám sát vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp theo nguyên tắc:

(i) Hình thức cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước độc lập để tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp;

(ii) Củng cố và tăng cường năng lực cơ quan tài chính quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của DNNN.

Định hướng tổng thể

- Phân loại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện có theo các nhóm sau:

+ Nhóm doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại Điều 10 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 hoạt động trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh; cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.

+ Nhóm doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, Nhà nước nắm giữ từ 65% tổng số cổ phần trở lên, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực như quản lý khai thác các cảng hàng không, sân bay; dịch vụ khai thác khu bay; dịch vụ thông tin dẫn đường, giám sát, dịch vụ khí tượng hàng không; Tài nguyên quốc gia; Tài chính, ngân hàng.

+ Nhóm doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, Nhà nước nắm giữ trên 50% đến dưới 65% tổng số cổ phần, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế như sản xuất hóa chất cơ bản, dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng; thuốc lá điếu; lương thực; xăng dầu; đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, gắn với quốc phòng, an ninh; kinh doanh bán lẻ điện.

+ Nhóm các doanh nghiệp còn lại ngoài các doanh nghiệp thuộc ba nhóm trên khi sắp xếp, cổ phần hóa, căn cứ tình hình cụ thể và khả năng thị trường để Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ đến không giữ cổ phần hoặc áp dụng hình thức sắp xếp khác phù hợp như chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, bán, giải thể, phá sản.

- Việc thoái vốn thực hiện theo nguyên tắc thị trường:

+ Thoái vốn Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp và vốn của các doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác theo đúng quy định về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước.

+ Tiếp tục thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào 05 lĩnh vực nhạy cảm (Chứng khoán, Bảo hiểm, Ngân hàng – Tài chính, Bất động sản, Quỹ đầu tư).

- Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tiếp tục thực hiện tái cơ cấu toàn diện về sắp xếp lại doanh nghiệp, đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp như: tổ chức, quản lý, nguồn nhân lực, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách:

(1) Chính sách về cổ phần hóa, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước:

- Sửa đổi, bổ sung quy định về cổ phần hoá, bán, giải thể, phá sản doanh nghiệp phù hợp với hệ thống Luật mới ban hành. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình sắp xếp và cổ phần hóa; hoàn thiện các nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế áp dụng đối với công ty đại chúng.

- Phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, mua bán nợ để thúc đẩy cổ phần hóa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận và huy động vốn phục vụ tái cơ cấu.

(2) Chính sách quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước:

- Hoàn thiện khung pháp lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh hoạt động trong môi trường pháp lý chung và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đã đầu tư. Doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, quốc phòng, an ninh phải hạch toán và thực hiện tốt nhiệm vụ chính sách xã hội được giao.

- Đổi mới quản trị doanh nghiệp để doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sức cạnh tranh và phát triển bền vững.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để tăng cường minh bạch báo cáo tài chính, thông tin tài chính, kinh doanh, điều hành tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; tăng cường trách nhiệm của Hội đồng thành viên và Ban điều hành và xử lý trách nhiệm nếu không thực hiện đúng quy định. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, quốc phòng, an ninh bảo đảm người lao động có mức thu nhập hợp lý, doanh nghiệp có lãi, thu hút được nguồn lực của xã hội tham gia. Mở rộng chế độ đặt hàng, đấu thầu sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Tách bạch giữa hoạt động sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, quốc phòng, an ninh với hoạt động sản xuất kinh doanh vì lợi nhuận của doanh nghiệp.

- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương, tiền thưởng để doanh nghiệp thực sự chủ động trong trả lương, trả thưởng gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động; thu hút lao động có trình độ cao vào làm việc.

(3) Chính sách về cơ chế quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước:

- Thực hiện tổng kết mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp được thành lập theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX và Kết luận số 78-KL/TW ngày 26/7/2010 của Bộ Chính trị, trên cơ sở đó, hoàn thiện mô hình để thực hiện chức năng cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp để tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng đại diện chủ sở hữu tại các Bộ, ngành và UBND địa phương theo văn kiện Đại hội XII: “Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các Bộ, Ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp.”

- Củng cố, tăng cường năng lực của cơ quan tài chính theo Luật số 69/2014/QH13 để thực hiện có kết quả việc “tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước”.

Giải pháp cụ thể

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước theo các Nghị quyết của Trung ương Đảng tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao hơn nữa nhận thức và có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện.

Hai là, hoàn thiện, ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước và danh mục doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020. Tập trung triển khai phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 theo tiêu chí, danh mục phân loại mới; chủ động xây dựng phương án và tiếp tục thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không nắm giữ cổ phần, vốn góp. Coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong các năm 2016 - 2020.

Nghiêm túc thực hiện cơ chế thị trường và quy định của pháp luật trong cổ phần hoá, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát vốn, tài sản. Thực hiện niêm yết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn đã cổ phần hoá trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế.

Rà soát, xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả theo nguyên tắc và cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện phá sản doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Ba là, từng Tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước:

- Rà soát, xác định lại nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh chính. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tập trung vào kinh doanh những ngành chính và những ngành liên quan phục vụ trực tiếp ngành, nghề kinh doanh chính.

- Xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030 phù hợp chiến lược phát triển ngành, nhu cầu của thị trường, khả năng cân đối và giải pháp về vốn đầu tư cho giai đoạn và năng lực trình độ quản lý.

- Xây dựng và công bố công khai phương án tái cơ cấu mà trọng tâm là công tác sắp xếp lại doanh nghiệp, cổ phần hóa, thoái vốn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Rà soát, bổ sung hoặc xây dựng ban hành các định mức kinh tế - kỹ thuật đối với các hoạt động của doanh nghiệp làm cơ sở để quản lý, kiểm tra, giám sát tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

- Công ty mẹ - tập đoàn/tổng công ty nhà nước phải tổ chức giám sát, kiểm tra thường xuyên, thanh tra định kỳ việc chấp hành pháp luật, thực hiện mục tiêu, chiến lược, kế hoạch và nhiệm vụ được giao, đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty con, cán bộ quản lý; kịp thời chấn chỉnh sai phạm.

Đổi mới quản trị doanh nghiệp trên tất cả các mặt như đổi mới quản trị về lao động, quản trị về tài chính, quản trị về vật tư, quản trị về khoa học công nghệ, sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả; hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, chú trọng kiểm soát rủi ro tài chính để kịp thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục và điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp; tăng cường năng lực, quyền hạn của ban kiểm soát, kiểm soát viên và kiểm toán nội bộ.

- Kiện toàn bộ máy quản lý, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu quản trị trong cơ chế thị trường. Áp dụng tổ chức lao động khoa học trong sản xuất, kinh doanh. Sắp xếp lại, nâng cao chất lượng lao động trong doanh nghiệp; trọng tâm là đội ngũ lao động kỹ thuật với số lượng hợp lý, cơ cấu ngành nghề và bậc thợ tối ưu đối với từng công nghệ, dây chuyền, công đoạn, công việc, trên cơ sở đó nâng cao năng suất của từng người lao động và năng suất lao động tổng hợp của doanh nghiệp.

- Thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư, quản lý tài chính, mua sắm, phân phối thu nhập, công tác cán bộ; trong ký kết và thực hiện các hợp đồng với những người có liên quan đến người quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Bốn là, cơ quan đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thông qua người đại diện đôn đốc các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thực hiện nghiêm quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch, đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định. Đồng thời nghiêm túc thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước theo đúng quy định.

Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh việc minh bạch, công khai hóa thông tin về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

Sáu là, tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong việc thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp đã được phê duyệt; coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng cần tập trung chỉ đạo hoàn thành theo đúng đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Xử lý nghiêm đối với lãnh đạo doanh nghiệp không thực hiện hoặc không thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu và nhiệm vụ được giao trong việc quản lý điều hành doanh nghiệp.

Bảy là, tiếp tục phát huy vai trò của tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước từ việc định hướng, chỉ đạo quán triệt đầy đủ các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước đến việc tổ chức thực hiện, giám sát quá trình tái cơ cấu theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.